Thứ Bảy, Tháng Năm 4, 2024
Trang chủBài viếtChuyên đềDÂN CA TÂY NINH TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP

DÂN CA TÂY NINH TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP

Tác giả: Nguyễn Quốc Đông

Tây Ninh là một tỉnh ở miền Đông Nam bộ, nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Kể từ đầu năm 2014 thị xã Tây Ninh đã được chính phủ công nhận là thành phố Tây Ninh.

Ta biết mỗi quốc gia đều mang tính dân tộc trong âm nhạc và nền âm nhạc đó được phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng mà mọi nơi đều cảm nhận được vì giai điệu là dấu hiệu đặc trưng nhất của âm nhạc là thứ duy nhất vượt mọi không gian thời gian khoảng cách ngôn ngữ vị trí địa lý và tầng sâu văn hóa… Dù người các nước khác không hiểu được ngôn ngữ diễn đạt trong lời ca nhưng họ vẫn cảm nhận được tiết tấu giai điệu đặc trưng của từng bài nhạc của mỗi dân tộc.

Thế nhưng trong ca khúc mang tính dân tộc không phải lúc nào chúng ta cũng bê nguyên xi các làn điệu dân ca thành bài nhạc mới thì không thể gọi là một bài hát mang âm hưởng dân ca được, mà đó là dân ca đặt lời mới mà thôi. Hiện nay rất có nhiều bài hát mang âm hưởng dân ca Nam bộ được phổ biến rộng rãi cho nên có thể các nhạc sĩ cũng ngại sáng tác theo lối nầy vì sợ trùng lặp, lối mòn làm khán giả bội thực.

Nếu chúng ta quá lạm dụng giai điệu tiết tấu dân ca thì dễ trùng lặp giống như sáng tác điệu boléro thì không khéo bài nào cũng na ná với nhau, có nhiều nhạc sĩ đã đi sâu vào giai điệu dân ca như Lý cái mơn, Lý đất giồng, Lý con sáo thì không còn sáng tạo nữa.

Riêng dân ca Tây Ninh cũng mới được khai thác sau nầy, chủ yếu là các điệu lý. Điểm qua dân ca các dân tộc ở Tây Ninh thì chủ yếu ta thấy cơ bản có ba nguồn: dân ca Chăm, dân ca Tà Mun và dân ca Khmer. Dân ca Chăm và Tà Mun, phần lớn là tự sự, thích hợp hát một mình, do đó các bài dân ca cũng dễ bị mai một đi nếu nghệ nhân hát dân ca qua đời. Dân ca Khmer chủ yếu là song ca nam nữ có tính chất giao duyên. Và nếu người Chăm, người Tà Mun quen hát không nhạc đệm thì người Khmer lại thường hát với dàn nhạc đệm, có kết hợp múa. Vào mùng một Tết Nguyên đán có dịp ghé qua tòa thánh Cao Đài Tây Ninh thì sẽ thấy những nghệ nhân dân tộc Khơ mer biểu diễn hát múa, đánh trống Xa Dăm trước đền thánh rất điêu luyện, loại hình biểu diễn nầy đã được Bộ văn hóa thể thao du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2014.

Chúng ta biết lý là những khúc hát bình dân, thịnh hành của dân tộc Việt, thể hiện sâu sát mọi đề tài, mọi trạng thái tình cảm, ước mơ của quần chúng, mọi hiện tượng trong cuộc sống. Đặc thù của hát lý là hát bắt nhịp, giọng cao giọng thấp, lặp đi lặp lại. Lý phát triển ở Trung Bộ và Nam bộ. Ngoài lý ở Tây Ninh còn có hò huê tình, hát ru, vè… Qua nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm thì dân ca Tây Ninh hiện còn lưu giữ được là 419 bài, trong đó, dân ca tộc Việt: 282 bài, dân ca tộc người thiểu số (Khmer, Chăm và nhóm người Tà Mun): 137 bài, lý: khoảng 144 bài. Hầu hết các điệu lý đều lấy từ nguồn ca dao. Ca dao Tây Ninh rất nhiều đề tài quen thuộc như cảnh vật, tình người, địa danh, những đặc sản tiêu biểu địa phương.

Về tên điệu lý Tây Ninh thì thông thường có ba cách sau:

  1. Đặt tên từ một số từ đầu của câu hát như Lý bìm bịp, lý con sáo, lý dây bầu, lý cùm nụm, lý cá rô mề, lý bên kia
  2. Đặt tên theo tiếng đệm lót hoặc tiếng láy đưa hơi như: lý oa tu hỡi, lý tìm nàng, lý quê chồng
  3. Đặt tên theo hành động, động tác hay nội dung câu chuyện mang tính chất tự sự như: lý kéo đờn, lý con chuột, lý sáng trăng, lý tình, lý đĩa xôi… (như bài Lý sáng trăng: “Nhà ai có bán trăng không? Dạ thưa rằng không có. Bóng vàng chi sáng nở trên thềm? Bóng nguyệt vàng, bóng nguyệt vàng ới bóng nguyệt vàng”).

Lý được phân biệt với hò vì không gắn liền với một động tác lao động hay giao duyên. Lý cũng có nhạc tính cố định hơn hò, câu hát đều đặn, trong khi hò có thể thêm câu dài câu ngắn, tùy người hát. Điệu lý Tây Ninh có tự bao giờ chưa ai dám khẳng định. Người tứ xứ về Tây Ninh mở đất, dựng quê, và những câu hát dân ca cũng hình thành giống như bao nhiêu nét văn hoá riêng của mình. Không ngạc nhiên khi có người nói: trong các làn điệu dân ca của Tây Ninh có cả bóng dáng của những câu ca của cả ba miền đất nước. Nhưng những năm tháng mở đất ở Tây Ninh, người Tây Ninh cũng có những cách thể hiện nỗi lòng mình qua những làm điệu dân ca của riêng xứ sở Tây Ninh với những đặc thù riêng.

Trường hợp điển hình là những bài lý liên quan đến địa danh của miền đất Tây Ninh, nên không thể lẫn vào đâu được. Lý quê chồng kể về miền đất Ngũ Long ở huyện Bến Cầu. Quê chồng ấy là miền đất các xã phía Nam của huyện Hòa Thành. Ngày nay, trên những bến sông quê ven sông Vàm Cỏ Đông như  Bến Đình. Ta có thể theo một chuyến đò máy sang sông, để qua Long Giang hay Long Vĩnh thăm lại một tuyến đường xuồng những cô dâu thời trước đã đi qua. Bài lý có những câu: “ Qua vàm Rạch Gốc/ tới cái hóc Miễu Bà Thủy Long ơ… /Qua luôn đất giồng là giồng cái Ông Quan Cựu/ rồi mới tới cái quê chồng là tới cái quê chồng của tui”,

Lý tìm nàng cũng nhờ có những địa danh mà có thể khẳng định ngay được sinh ra từ miền nào trên đất Tây Ninh: “ Qua Sân cu, ơ rường ơ/ mới tới miễu ông Tà ơ rường ơ/ lên đây rồi mới gặp ơ rường ơ/ cửa nhà em ở Bàu Năng ơ rường ơ/ phải qua Ninh Hiệp ơ rường ơ/ mới đặng gặp nàng ơ rường ơ”. Đây là tâm trạng của chàng trai trên đường tìm tới quê cô gái mà mình thầm yêu trộm nhớ. Bây giờ đường xá đến Sân Cu đã mở mang tốt đẹp, nhưng những ai ở xứ này đều biết, ngày xưa đây giống như một ốc đảo hoang vu rừng rậm nhiều thú dữ.

Lý oa tu hỡi nói lên tâm trạng sâu lắng người con nhớ cha mẹ, nhớ gia đình thân thương: “Mặt mẹ hiền dịu ơ rường ơi oa tu hỡi mà nhớ quá mắt cha nhăn nhó ờ ơ”.

Lý bìm bịp tiết tấu chậm, than van trách móc người phụ nữ sang ngang để lại đàn con thơ dại: “Bìm bịp kêu rõ quá à ôi, dõi sao lấy chồng bỏ trẻ bên sông…thương cho tròn cho con bìm bịp kêu, thương cho tròn cho con bìm bịp kêu, thương cho tròn cho con bìm bịp kêu…”. Giai điệu tiết tấu ca từ có khác với điệu Lý bìm bịp vùng khác.

Lý ngựa ô tiết tấu sôi động, rất vui tươi, dí dỏm: “Ngựa ô anh không thắng không thắng cái lá kiệu vàng ruông xã rường ơi/ anh đeo khớp bạc lục lạc tòng teng anh giậm búp sen dây cương dậm thắng tình ông tang tính tính ông tang tình/ đó mà ham vui đây mà thua con cá bóng kềm nó lội ra khơi” (bài nầy có nét dí dỏm thêm hình tượng con cá bóng kiềm. Lý ngựa ô truyền thống thì có hình ảnh con ngựa đủ bộ mã đẹp đẽ, tâm trạng náo nức để đưa nàng về dinh, còn đây chỉ là anh chàng cưỡi ngựa ham vui mà thôi, đó là sự sáng tạo tưởng tượng của giới bình dân mang rõ nét đặc thù Nam bộ).

Lý dây bầu với giai điệu khá mượt mà tươi vui mạch lạc… dựa vào hình tượng dây bầu mà nói đến tình yêu lứa đôi: “Bầu lên dây bầu mới tượng hình chờ cái dây tang tình nở nhụy ơi rường ơi…là tang ý a tang tình đôi mà xứng đôi, đôi mà xứng đôi…”.

Lý bên kia của vùng Trảng Bàng thì mang tính tự sự với giọng hố khoan nói lên tâm tình người phụ nữ có chồng đi học ở xứ đô thành: “Ngó qua bên chợ thì thôi hố khoan/ Bên nầy chợ ơi Bàng Trảng Bàng, bên nầy chợ ơi Bàng Trảng Bàng. Chồng tôi đi học thì thôi hố khoan, đi thì đi học ở Gòn Sài Gòn, đi thì đi học ở Gòn Sài Gòn”.

Lý cùm nụm như một khúc đồng dao vui tươi, một trò chơi tay tí tay tiên của trẻ thơ ngày xưa: “Cùm nụm cùm niệu tay tí tay tiên đồng tiền chiếc đũa, hột lúa ba bông í…. ẹ… nè rớt… lượm (nè) Tay tí (ớ) tay cùm nụm tay tí ( ớ) tay cùm nụm”.

Lý bông đậu giai điệu sảng khoái vui tươi, thể hiện một câu đố bình dân trong sinh hoạt hằng ngày của người dân lao động: “Cái cây xanh xanh/ cái lá xanh xanh/ thơm bông trên nhành/ trái tròn trong đất ớ ơ ờ ơ…./ mà bông vàng rực/ nó đậu trên nhành/ là bậu đố anh,/là bậu đố anh” (bài nầy vô đầu hơi mang âm hưởng tiết tấu Con chim manh manh Nam bộ).

Những năm vừa qua, Hội VHNT Tây Ninh và Sở VHTT và DL Tây Ninh đã sưu tầm nghiên cứu về  nghệ thuật truyền thống đờn ca tài tử Nam bộ ở Tây Ninh. Song song đó công trình Sưu tầm nghiên cứu Dân ca Tây Ninh cũng đã xuất bản Dân ca Tây Ninh với hơn 300 bài dân ca và đĩa CD Giai điệu quê hương. Với một vốn dân ca phong phú như thế chúng tôi rất tự hào là một nguồn tư liệu dồi dào để nhạc sĩ chúng tôi khai thác.

Nhằm quảng bá những nét đặc trưng của Tây Ninh, tôi đã đưa vào bài hát Huyền thoại Núi Bà sự tích nàng Lý Thị Thiên Hương gieo mình xuống vực để giữ tấm lòng chung thủy, sau nầy do linh ứng nên vua Gia Long đã sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu. Núi Bà là điểm du lịch rất  thu hút ở miền Đông. Xung quanh ngọn núi là có ba dân tộc Chăm, Tà Mun, Khơ me đang sinh sống và có những làm điệu dân ca rất phong phú. Nhiều nhạc sĩ đã khai thác đề tài này, nhưng mới chỉ là những bước đi đầu tiên và cần có những động thái tích cực hơn, cụ thể hơn trong thời gian tới nhằm lưu giữ và phát triển các loại hình nghệ thuật dân gian. Mặt khác các nhạc sĩ, các nhà nghiên cứu cần phải hoạt động tích cực hơn nữa để đưa vốn dân ca Tây Ninh đến với quần chúng bằng những tác phẩm âm nhạc mang âm hưởng dân ca theo phong cách hiện đại hơn.

Nhìn chung, dân ca Tây Ninh về giai điệu, tiết tấu, khúc thức khá đơn giản dễ ca, dễ hát, lời lẽ bình dân, chân tình và vui tươi, một số bài mang tính chất dí dỏm đó cũng là nét đặc thù của phong cách Nam bộ.

Phần nhiều trong các bài dân ca của Tây Ninh đã sưu tầm được trĩu nặng tâm trạng hay gửi gắm tình yêu đối lứa, tình người trong lao động. Những nét riêng chỉ có thể nhận ra qua cách sử dụng từ ngữ có lúc còn thô mộc, đôi khi cũng trau chuốt đẹp lời đầy ý vị. Nhưng tất cả đều là những ngôn ngữ xuất xứ từ một nền lao động nông nghiệp, chân chất, thiệt thà như củ khoai, hạt lúa quê nhà.

Trước sự phát triển ào ạt của dòng nhạc thị trường hiện nay và tình hình ngày càng mất dần đi lớp nghệ nhân lớn tuổi – có nguy cơ làm đứt mạch chảy từ xa xưa của dòng dân ca dân tộc, việc sưu tầm và lưu giữ, bảo vệ nguồn tài sản tinh thần quý giá nầy nói chung và dân ca Tây Ninh nói riêng là vấn đề cấp thiết đáng được quan tâm.

Những năm vừa qua các nhạc sĩ Tây Ninh cũng đã có nhiều cố gắng trong việc giữ gìn và phát huy vốn dân ca truyền thống đia phương (kí âm lại đi thực tế sưu tầm sáng tác ca khúc mang tính dân tộc), nhưng gặp không ít những khó khăn: kinh phí hạn hẹp, đội ngũ nhân sự ít, cơ sở vật chất thiếu thốn…, do đó sự quảng bá giới thiệu các làn điệu dân ca các sáng tác địa phương cũng bị hạn chế theo. Trong cơ chế kinh tế thị trường hoạt động âm nhạc tại địa phương gặp rất nhiều khó khăn như việc trình diễn biểu diễn là điều kiện tối thiểu cho quần chúng thưởng thức tác phẩm của mình chúng tôi cũng khó thực hiện thường xuyên, chế độ nhuận bút cũng chỉ mang tính tượng trưng. Do vậy đầu ra gặp trở ngại so các tỉnh thành phố lớn (ngay cả làm một CD nhạc để giới thiệu với công chúng cũng phải tốn vài chục triệu đồng).

Hiện nay chúng ta có lợi thế quảng bá tác phẩm âm nhạc trên nền tảng mạng xã hội cũng rất hiệu quả như FB, Zalo, youtube… và trên hai website âm nhạc lớn của ngành: đó là trang web của Hội nhạc sĩ Việt Nam và trang web của Hội âm nhạc TP HCM. Song song đó các trang weblogs cá nhân, các website âm nhạc của các nhạc sĩ khá nhiều. Qua đó chúng ta dễ dàng nắm bắt thông tin và giao lưu học hỏi nhau. Nếu có thể Hội Nhạc sĩ tạo một kênh trên sóng truyền hình để phổ biến các tác phẩm, nhất là các bài hát đạt giải của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ có nhiều bài hát mang âm hưởng dân ca Tây Ninh lan tỏa đi khắp nơi do các nhạc sĩ sáng tác và tạo nên phong phú cho nền văn hóa dân gian  Nam bộ.

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

XEM NHIỀU

BÌNH LUẬN GẦN ĐÂY