Thứ Ba, Tháng Tư 23, 2024
Trang chủNhân vậtNhạc sĩMột chân dung làm nên từ những bài hát trữ tình: Hoàng...

Một chân dung làm nên từ những bài hát trữ tình: Hoàng Hiệp

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu

(Tưởng niệm 10 năm ngày mất của nhạc sĩ Hoàng Hiệp)

Hồn nhạc được sinh ra từ ngọn lửa trái tim người sáng tác.
Cuộc sống là cái sản sinh ra ngọn lửa ấy.

Hoàng Hiệp[1]

Hồn nhạc của Hoàng Hiệp được sinh ra từ ngọn lửa ấm áp, nồng nàn chất trữ tình. Trữ tình như một mạch chảy không ngừng xuyên qua các giai đoạn sáng tác của ông, kể cả trong thời kì chiến tranh ác liệt nhất. Mạch trữ tình ấy thường được khởi nguồn từ thơ ca. Ai đó từng gọi ông là “Ông hoàng của nghệ thuật phổ thơ”. Quả thực, Hoàng Hiệp là một trong số ít nhạc sĩ có biệt tài chắp cánh cho thơ. Với giai điệu giàu cảm xúc của ông, nhiều bài thơ nổi tiếng như có thêm cuộc đời mới, bay bổng hơn và bay xa hơn.

Cậu bé Lưu Trần Nghiệp ra đời ngày 1-10-1931 tại An Giang, trong một làng cù lao nằm giữa sông Tiền. Là niềm hi vọng của gia đình, cậu bé như được “định hướng” vào nghề thuốc theo truyền thống bên nội, hoặc nghề giáo của bên ngoại. Vậy mà đời cậu lại chẳng an bài theo số phận.

Vốn đa sầu đa cảm, cậu bé dễ rớt nước mắt trước những điệu hát buồn thảm, và tuổi ấu thơ của cậu thấm đẫm những điệu hò. Tiếng hò xốn xang quyến rũ có đêm đã gọi cậu vùng dậy chạy dọc theo sông như người mộng du, rồi một mình đứng bên sông khóc mùi mẫn. Không có điều kiện học nhạc để sớm bộc lộ năng khiếu bẩm sinh, phải đợi cho đến năm 45, khi cơn lốc Cách mạng tràn về thức tỉnh cái làng nhỏ im lìm, cũng là lúc những bài ca yêu nước làm bừng lên khả năng ca hát ở cậu thiếu niên nhút nhát. Không còn là đứa trẻ trầm tư, rụt rè, cậu hăng hái tham gia Đoàn tuyên truyền lưu động Long Xuyên phục vụ Cách mạng bằng tiếng hát, “hát đến rát cả cổ họng, hát đến muốn vỡ tung lồng ngực”[2]. Nếu không xảy ra sự kiện Cách mạng, chưa biết cuộc đời cậu bé thích ca hát đó phải đi theo ngả nào. Có thể đã có một thầy thuốc hay nhà giáo Lưu Trần Nghiệp, chứ chắc chắn không thể có một nhạc sĩ Hoàng Hiệp!

Đam mê ca hát vừa bùng lên đã kéo theo ngay một niềm đam mê mới: học đánh đàn. Bàng hoàng thực sự khi lần đầu tiên nghe người ta vừa hát vừa họa theo bằng đàn măngđôlin, cậu thiếu niên 14 tuổi đã nhất quyết thực hiện kì được “giấc mơ lớn” của đời mình. Khó khăn lắm gia đình mới sắm nổi cho cậu cây đàn cũ, và cậu tự lần mò như một em bé “tập đi mà không ai dắt”[3]. Cùng cây đàn đó, Hoàng Hiệp đã thoát li gia đình đi văn công kháng chiến. Cùng cây đàn đó, chàng trai 17 tuổi đã vô tình đặt bước chân đầu tiên lên một ngưỡng cửa mới của nghệ thuật âm nhạc: sáng tác ca khúc. Bài hát “vỡ lòng” của chàng nhạc sĩ chưa tên tuổi này là cảm xúc không thể kìm nén trong nỗi đau mất một người em gái nhỏ.

Năm 1954, Hoàng Hiệp theo Đoàn Văn công Nam Bộ tập kết ra Bắc. Vừa theo học khóa sáng tác đầu tiên (1956) tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Nhạc viện Hà Nội), ông đã nổi tiếng với Câu hò bên bờ Hiền Lương. Nhạc sĩ cho rằng từ đó trở đi đời ông may nhiều hơn rủi: được chọn một nghề nghiệp phù hợp với khả năng, được học hành đến nơi đến chốn, được làm việc tại các nhà xuất bản âm nhạc (Nhà xuất bản Mỹ thuật Âm nhạc từ 1960 và Nhà xuất bản Giải phóng từ 1969), và công việc biên tập đã cho ông một điều kiện đáng ao ước đối với người sáng tác: tiếp xúc với nhiều tác phẩm âm nhạc.

Là người con của quê hương miền Nam, dễ hiểu vì sao trong thời kì đất nước còn chia cắt, Hoàng Hiệp đã rất thành công ở những bài ca gửi về đất mẹ thương nhớ. Ông nắm bắt những góc độ bất ngờ của những con người vô danh, những công việc bình thường, và làm cho những hình ảnh xúc động trở nên lung linh hơn trong âm nhạc. Em gái vừa hò khoan vừa vác hòm đạn tám mươi cân với “hình cánh hoa lan trên vai áo trắng ngần là vết xước đinh hòm vừa mới xé”[4]. Mẹ già bao năm đào hầm đủ giấu cả sư đoàn trong lòng đất, và nơi hầm tối đã thành nơi sáng nhất để soi tỏ tấm lòng và sức mạnh con người Việt Nam[5]. Sức mạnh con người còn được thể hiện qua những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu trên đường ra trận, những cây tre rừng làm nhà biến thành chông diệt giặc, những đoàn xe không kính, không đèn, không mui, chỉ cần có một trái tim nóng bỏng để lao ra trận tuyến[6]. Sức mạnh tinh thần tiềm ẩn ở những người con trai con gái nơi tiền tuyến biết gạt đi mọi nỗi nhớ riêng tư, ở những người vợ người yêu nơi hậu phương biết đợi chờ cũng là hạnh phúc, như xưa kia ông bà cha mẹ ta đã từng đợi chờ nhau [7].

Vốn sống được tích lũy từ những chuyến đi, nhiều cảm xúc cũng xuất phát từ đó, nhiều ca khúc thành công là kết quả của thực tế đời sống mà nhạc sĩ được tận mắt chứng kiến. Sẽ không có được một Ngọn đèn đứng gác (1966) đầy xúc động và niềm tin nếu tác giả chưa từng đội bom trên tuyến lửa khu bốn với ba lần chết hụt. Sẽ chẳng có một Trường Sơn đông Trường Sơn tây (1971) hay Lá đỏ (1975) đằm thắm và đầy sức sống nếu tác giả chưa từng lặn lội trên con đường mòn lịch sử. Cũng chẳng có Em vẫn đợi anh về (1980) nếu trong chiến tranh tác giả đã không gặp một người – đó là một người vợ lính luôn bình thản vui vẻ như chẳng hề bặt tin chồng nhiều năm, nhưng nỗi đau khổ nhớ thương chị cất giấu trong mỗi đêm đã để lại đầy những vết răng cắn dọc suốt thành giường.

Trước 1975, Hoàng Hiệp còn viết nhiều về đề tài xây dựng cuộc sống mới trên Miền Bắc. Ông hát về cánh đồng mười tấn rồi lại đến với nhà máy thép gang, hát từ thượng nguồn đến cánh đồng vùng chiêm trũng, hát dưới ánh sáng đèn dầu xóm bản đến đêm trăng đồng bằng, hát với anh lái xe trên tầng, hát cùng cô xã viên nông nghiệp…

Sau 1975, đề tài này được bổ sung thêm nhiều bài mang tên các vùng đất phía Nam: từ Huế đến Cà Mau, từ Đà Lạt đến Nha Trang, từ Tây Ninh đến Đồng Tháp… Nếu trong đề tài về chiến tranh Hoàng Hiệp thường phổ thơ, thì ở đề tài về quê hương ông thường tự viết lời, có lẽ đó là những cảm xúc trực tiếp sau mỗi chuyến đi về các vùng miền đất nước. Bài Trở về dòng sông tuổi thơ không gắn liền với địa danh nào cụ thể, lại có phần nổi trội hơn nhiều bài khác. Bên cạnh đường nét giai điệu giàu cảm xúc, yếu tố thành công còn nhờ vào lời ca truyền cảm và đẹp như một bài thơ. Bài hát không “trói buộc” vào một địa phương nào càng làm cho nhiều người dễ cảm thấy như chính nỗi lòng mình đang hát về con sông quê của riêng mình.

Một điểm đặc biệt nữa trong đề tài quê hương, là chưa có “địa phương ca” nào của Hoàng Hiệp, kể cả những bài dành cho quê hương miền Nam ruột thịt, được công chúng yêu thích hơn Nhớ về Hà Nội – “Thủ đô yêu dấu, một thời đạn bom, một thời hòa bình”[8], và một thời thanh xuân của chính ông.

Trong giai đoạn hòa bình, đòi hỏi chính đáng của giới trẻ về đề tài tình yêu đã thôi thúc Hoàng Hiệp viết nhiều tình ca. Thực ra, chủ đề tình yêu đã xuất hiện từ lâu trong những bài ca “ngày Bắc đêm Nam”, những ca khúc kể về tình người hậu phương gửi người ra trận, về nỗi nhớ nhau giữa cô thanh niên xung phong với chàng lính lái xe đang xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Nhưng, như các bạn trẻ thời nay nhận xét, những bài hát “một thời đạn bom” [9] ấy chỉ có 50% tình yêu đôi lứa, còn 50% kia vẫn không quên nhiệm vụ. Vậy, “tình yêu 100%” phải từ thập niên 80 trở đi mới thực sự trở thành một chủ đề chính trong sáng tác của ông.

Viết về tình yêu đôi lứa khi đã bước qua tuổi 50, 60… rồi 70, nhạc sĩ cho thấy một quan niệm và cách thể hiện tình yêu của lớp người từng trải, từng hi sinh mất mất. Đó không phải loại tình ca giận hờn đỏng đảnh một cách hời hợt, hoặc đau đớn não nề một cách giả tạo như thường gặp trong nhiều bài hát “thời thượng” của “âm nhạc kinh tế thị trường”. Tình yêu của Hoàng Hiệp không phải trò đùa, không mờ ảo sương khói, không là cỏ, là gió, chợt đến rồi đi[10]. Yêu, không theo cái cách bột phát, lộ liễu, gấp gáp, mà có phần “cổ điển” trong cái nghĩa kín đáo, sâu nặng, bền lâu. Với ông, tình yêu luôn thủy chung, sắt son, trọn vẹn. Nếu thuở nào đã nhắn nhủ nhau lời thề: “Bến thì một dạ, khăng khăng đợi thuyền”, thì nay ông vẫn muốn giữ cho tình yêu “một màu hoa tím”[11]. Chỉ một lần đến là có một đời để nhớ để yêu, là nguyện nuôi tình yêu trẻ mãi đến trọn đời[12]. Chữ yêu luôn đi kèm với chữ tin, dù xa cách vẫn biết “anh đang nghĩ với em những điều em nghĩ” và “anh vẫn thấy đời không lẻ loi” [13]. Những nàng Tô Thị của hôm nay cũng như trong quá khứ, của thời bình cũng như thời chiến, luôn mong mỏi “đợi anh về” để có một hạnh phúc thật giản dị, đời thường: được ghen được hờn, được thương được giận, được cùng chồng hôn con[14].

Hoàng Hiệp ngợi ca những mối tình sáng trong như nắng mai vàng, đầy đặn như biển ôm bến nước, còn Em dịu dàng như cơn gió nhẹ, như cánh én mỏng, ấm êm như một vầng nắng giữa đời mưa sa[15]. Cũng có những phút giây “đánh mất”, nhưng ngay lập tức người trong cuộc sực tỉnh ngộ “anh không ra đi mà như trở lại”[16]. Khoảng cách thời gian, không gian chẳng làm nhạt đi niềm tin về một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu không già.

Ngoài các mảng đề tài chính đã nói trên, còn thấy ở Hoàng Hiệp một số bài ngợi ca vị lãnh tụ kính yêu (Thăm lăng Bác – thơ Viễn Phương), một vài bài lấy cảm hứng từ đề tài cổ, từ dân gian, một số bài khác nặng về suy ngẫm lẽ đời và cả những bài hát dành cho thiếu nhi.

Nhiều bài hát của ông đã được công chúng yêu mến nhờ những sáng tạo trong nghệ thuật phổ thơ, nhờ một ấn tượng đậm nét trong ngôn ngữ âm nhạc: đường nét giai điệu uyển chuyển và đa dạng, tiết tấu linh hoạt và không đơn điệu, lối sử dụng một nét nhạc ngắn vừa làm điểm nhấn gây chú ý, vừa để tạo nên tính thống nhất cho tác phẩm, và đặc biệt, nhiều yếu tố gần gũi với phong cách dân ca trữ tình của các vùng miền khác nhau: Bắc, Trung, Nam, Tây Nguyên.

Bên cạnh hơn 200 ca khúc, ông còn viết nhạc cho sân khấu, cho hàng chục phim truyện và phim tài liệu. Sự nghiệp âm nhạc của ông được ghi nhận bằng một loạt huy chương, huân chương và một phần thưởng cao quý nhất trong đời nhạc sĩ: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – nghệ thuật.

Ông mất khi vừa bước sang tuổi 82 (9-1-2013).

Có lần “chơi chữ” nhạc sĩ Doãn Nho đã gọi đùa Hoàng Hiệp cùng Hoàng Vân là hai “ông hoàng” mang cái nghiệp làm âm nhạc. “Ông hoàng của nghệ thuật phổ thơ” tuy không phải trải qua nhiều sóng gió cuộc đời (như lời tự sự của chính ông), nhưng là người nhạy cảm, dễ rung động, lại thường xuyên lăn lộn trong đời sống quần chúng, nên ông ngày một giàu có thêm với cái vốn sống mà trong đó “số phận của nhiều người được gán cho một người”[17]. Nhờ thế mà gia tài âm nhạc của ông cứ lớn dần thêm với những tình ca khéo gói ghém nhiều cái chung vào một cái tôi.

Nói đến tính trữ tình và những sáng tạo trong nghệ thuật phổ thơ của ca khúc Việt Nam nửa sau thế kỉ XX, chắc chắn người đời sau sẽ không quên nhắc đến một tên tuổi: Hoàng Hiệp!

~~~~~~~~~~~~~~~~~`
[1] Hoàng Hiệp: Đôi điều nhớ lại. Sách: Nhạc và Đời. Nxb Tổng hợp Hậu Giang, 1989.
[2] Hoàng Hiệp: Đôi điều nhớ lại. Sách: Nhạc và Đời. Nxb Tổng hợp Hậu Giang, 1989.
[3] Vừa dẫn.
[4] Nghe hò đêm bốc vác (Phạm Tiến Duật).
[5] Đất quê ta mênh mông (Dương Hương Li).
[6] Ngọn đèn đứng gác (Chính Hữu), Cô gái vót chông (Môlôichoi), Tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật).
[7] Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (Phạm Tiến Duật), Em biết là anh đang ở đâu! (Phạm Hổ).
[8] Nhớ về Hà Nội.
[9] Nhớ về Hà Nội.
[10] Tình yêu không là gió.
[11] Câu hò bên bờ Hiền Lương, Bông lục bình.
[12] Một lần đến một đời yêu, Nơi em gặp anh.
[13] Em biết là anh đang ở đâu (Phạm Hổ), Thơ tình lính biển (Trần Đăng Khoa).
[14] Em vẫn đợi anh về (Lê Giang).
[15] Về phía ấy tình yêu (Lê Giang), Mùa chim én bay (Diệp Minh Tuyền), Hư ảo tình ta (Lê Thị Kim).
[16] Đánh mất (Thanh Nguyên).
[17] Hoàng Hiệp: Đôi điều nhớ lại. Sđd.

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

XEM NHIỀU

BÌNH LUẬN GẦN ĐÂY