Thứ Sáu, Tháng Ba 29, 2024
Trang chủTác phẩmNhạc đànBeethoven: Giao hưởng số 7

Beethoven: Giao hưởng số 7

Tác giả: Ngọc Anh (tổng hợp)

 


Thông tin chung

Tác giả: Ludwig van Beethoven
Tác phẩm: Giao hưởng số 7 giọng La trưởng, Op. 92
Thời gian sáng tác: 1811-1812
Công diễn lần đầu: ngày 8/12/1813 tại Vienna trong một buổi hòa nhạc từ thiện cho các thương binh trong trận chiến Hanau do tác giả chỉ huy
Độ dài: từ 33 đến 44 phút.
Đề tặng: Bá tước Moritz von Freis
Thành phần dàn nhạc: 2 nhạc cụ mỗi loại gồm flute, oboe, clarinet, bassoon, French horn, trumpet, timpani và dàn dây gồm violin 1 và 2, viola, cello và double bass.

Tác phẩm gồm 4 chương:

I- Poco sostenuto – Vivace.
II- Allegretto.
III- Presto – Assai meno presto (trio).
IV- Allegro con brio.

Hoàn cảnh sáng tác

Nhiều tác phẩm ngày nay được xem là các sáng tác có giá trị nhất của Beethoven, đặc biệt là các tác phẩm giai đoạn cuối sự nghiệp, ban đầu được khán giả đón nhận với một tâm trạng ngổn ngang phức tạp: ngợi khen, hoang mang, chống đối. Song ngược lại cũng có các tác phẩm đã từng thật sự rất nổi tiếng, hay ít ra là nhằm vào mục đích nổi tiếng nhưng ngày nay lại là các tác phẩm ít quen thuộc hơn nhiều so với khi chúng được khán giả cùng thời Beethoven yêu thích như Wellington’s Victory (Chiến thắng của Wellington), oratorio Christ on the Mount of Olives (Chúa Kitô trên núi Ôliu), bản thất tấu và khúc tình ca tuyệt diệu “Adelaide”. Đôi khi tác phẩm của Beethoven được ghi nhận ngay tức thì cả ở khía cạnh nghệ thuật lớn lao cả ở khía cạnh được đại chúng yêu thích. Một trong nhưng trường hợp đó là chương II trong bản Giao hưởng số 7 của ông, một chương nhạc thường được trích ra biểu diễn riêng và có lẽ đã từng là sáng tác cho dàn nhạc nổi tiếng nhất của Beethoven.

Wagner gọi Giao hưởng số 7 là “sự thánh hóa vũ khúc” của Beethoven với hàm ý ngợi ca tinh thần phóng túng của tác phẩm. Và ta thấy phép nghịch hợp này của Wagner thật xác đáng sau khi khảo sát nhịp điệu và vị trí của nó. Isadora Duncan, Léonide Massine cùng nhiều vũ công, biên đạo múa khác đã thử sức với những dàn dựng ballet trên nền nhạc Giao hưởng số 7 một cách vụng về và nội dung ballet chẳng liên quan gì đến ý đồ âm nhạc của Beethoven. Khi nghe bản giao hưởng rạng rỡ nhất của Beethoven này thật khó mà không nghĩ rằng ông hẳn đã viết nó trong giai đoạn bừng nở của tình yêu đôi lứa. Phải hơn một thế kỉ sau các nhà âm nhạc học mới có thể chứng minh rạch ròi điều mà trái tim thính giả cảm nhận được: thật sự là tác giả đang yêu. Beethoven hoàn thành Giao hưởng số 7 chỉ vài tuần trước khi viết các lá thư nổi tiếng gửi cho “người yêu bất tử” Antonie Brentano của mình vào tháng 7/1812. Giờ đây đã rõ là các lá thư đó cũng như bản giao hưởng này đánh dấu cao trào của một tình yêu song phương say đắm ấp ủ trong nhiều năm nhưng rút cục không thể trọn vẹn do định mệnh.

Giao hưởng số 7 phải đợi một năm rưỡi sau khi hoàn thành mới có được buổi công diễn đầu tiên. Các cuộc chiến tranh do Napoleon phát động đã gây thiệt hại trong một thời gian dài. Chiến thắng quyết định của liên minh trong trận Leipzig đã đảo chiều cuộc chiến gây bất lợi cho Pháp song cuộc xâm lược Nga của Pháp vẫn đang tiếp diễn. Tại Vienna mùa thu năm 1813 Johann Nepomuk Mälzel, người phát minh ra máy đánh nhịp và dàn nhạc cơ khí có tên panharmonicon, đã thuyết phục Beethoven cho mượn danh tiếng và âm nhạc của ông cho một buổi hòa nhạc từ thiện trợ giúp những binh lính người Áo và Bavaria bị thương trong trận Hanau. Buổi hòa nhạc được tổ chức vào ngày 8/12/1813 tại Sảnh Đại học cũ của Vienna. Với mục đích tốt đẹp, Beethoven đích thân chỉ huy, các nhạc công sáng giá nhất Vienna (Johann Hummel, Antonio Salieri…) ngồi trong dàn nhạc cùng bầu không khí mang hương vị chiến thắng đang đến gần đã khiến một đám đông náo nhiệt ngồi chật kín phòng hòa nhạc. Chương trình hòa nhạc chắc chắn là rất thích hợp: toàn bộ Giao hưởng số 7 giọng La trưởng của Beethoven, các hành khúc của Dussek và Pleyel do “kèn trumpet tự động” mà Mälze chế tạo chơi cùng phần đệm của cả dàn nhạc thật, và tác phẩm Chiến thắng của Wellington hay còn gọi là “Giao hưởng chiến trận” mang tính chương trình vốn được Beethoven sáng tác cho panharmonicon nhưng lại được dàn nhạc thật trình diễn trong dịp này .(“Battle Symphony” rất nổi tiếng vào thời đó nhưng ngày nay được xem như một “bĩ cực” trong số các tác phẩm viết cho dàn nhạc thời kỳ thành thục của Beethoven).

Đúng như mong đợi, buổi hòa nhạc thành công vang dội. Sau mười năm kể từ lần công diễn bản Concerto piano số 3 với rất nhiều đổi thay, Giao hưởng số 7 được khán giả đón nhận nhiệt liệt. Thành công này chắc chắn có sự góp phần của dàn nhạc được luyên tập kĩ càng hơn mức bình thường. Franz Glöggl, người được Beethoven cho phép có mặt tại các buổi tập, kể lại chuyện các nhạc công violin từ chối chơi một đoạn nhạc mà họ than rằng quá khó. Beethoven đã năn nỉ họ mang phân phổ về nhà để luyện tập thêm. Glöggl thuật lại: “Trong buổi tập ngày hôm sau đoạn nhạc đó được chơi một cách xuất sắc và các quý ông nhạc công đã hân hoan trước việc họ đã khiến Beethoven hài lòng.”

Trong số các nhạc công violin còn có nhà soạn nhạc Ludwig Spohr (1784-1859), người đã sửng sốt trước phong cách chỉ huy của Beethoven. Spohr chú ý tới cách Beethoven sử dụng “mọi cách thức cử động khác thường của toàn bộ cơ thể. Khi đến một đoạn sforzando (thuật ngữ chỉ cách chơi với cường độ mạnh và có nhấn), ông xoạc mạnh đôi cánh tay trước đó bắt chéo trên ngực với một sự mãnh liệt lớn lao. Tới đoạn piano (cường độ nhẹ) ông cúi người xuống càng lúc càng thấp hơn để thể hiện mức độ êm ái. Khi bắt vào đoạn crescendo (cường độ mạnh dần) ông lại vươn người lên dần dần và tới một đoạn forte (cường độ mạnh) thì ông nhảy dựng lên không trung.” Ta có thể dễ dàng hình dung ra cách chỉ huy của Beethoven ngày ấy phải sinh động đến cỡ nào với một tác phẩm như thế này.

Phân tích

Chương I

Bản giao hưởng được mở đầu bằng một trong những introduction (đoạn giới thiệu) chậm rãi trau chuốt nhất đồng thời dài nhất của Beethoven. Nhưng trên cả việc báo trước các yếu tố chủ đề của chương Vivace mà nó dẫn trước, đoạn Poco sostenuto này hàm chứa hình mẫu điệu thức cho toàn bộ bản giao hưởng. Đoạn introduction kết thúc bằng một khoảng lặng dài trước khi chủ đề của phần Vivace rốt cục vang lên, giống như việc về tới nhà và kể lại toàn bộ cuộc phiêu lưu ngay lập tức với nhịp 6/8 một cách hồ hởi.

Chương II

Chương II – Allegretto gồm một chủ đề siêu việt cùng các biến tấu trên nền một nhịp điệu trì tục toàn bộ chương nhạc: dài-ngắn-ngắn-dài- dài (nốt đen-nốt trắng-nốt trắng-nốt đen-nốt đen). Jeffrey Kahane, một nhà nghiên cứu về Hy Lạp cổ, đưa ra giả thuyết rằng cơ sở của nhịp điệu này được lấy cảm hứng từ kiểu nhịp thơ dactylic hexameter thường được sử dụng trong nhiều sử thi Hi Lạp và La Mã (như Odyssey của Homer và Aeneid của Virgil). Cuốn sách yêu thích của Beethoven là Odyssey và trong nhật ký của ông rõ ràng có một mục ghi “dactylic hexameter”. Một dòng thơ ở thể dactylic hexameter gồm 6 ô nhịp (foot), mỗi ô nhịp là một dactyl, mỗi dactyl gồm 3 âm tiết trong đó âm tiết đầu là âm tiết dài (nhấn – mạnh) còn hai âm tiết sau là âm tiết ngắn (không nhấn – nhẹ). Ô nhịp thứ sáu của dòng thơ thường không phải là một dactyl mà được thay bằng hai âm tiết nhấn. Vì thế hai ô nhịp cuối của dòng thơ tạo thành kiểu nhịp nhấn: dài-ngắn-ngắn-dài- dài. Có thể coi bản giao hưởng này là Odyssey bằng âm nhạc của Beethoven.

Trong những năm đầu sau buổi công diễn đầu tiên, khán giả luôn yêu cầu được nghe dàn nhạc trình bày lại lần nữa chương Allegretto. Trong thời đại của các thiết bị nghe nhìn tối tân hiện nay chương nhạc này cũng thường xui khiến người nghe nhấn vào nút Repeat trên chiếc điều khiển từ xa. Chương nhạc gây ảnh hưởng một cách khác thường lên các nhà soạn nhạc thế hệ sau như trong các chương chậm của Giao hưởng giọng Đô trưởng và bản Trio piano giọng Mi thứ của Schubert, Giao hưởng “Nước Ý” của Mendelshohn, Harold en Italie (Harold ở Ý) của Berlioz và các tác phẩm khác.

Chương III

Khúc scherzo tốc độ Presto trong chương III càng làm lộ rõ diện mạo vũ khúc của tác phẩm. Tiếp theo là một trio được chơi đến 2 lần như trong một số tác phẩm khí nhạc khác của Beethoven.

Chương IV

Chương kết Allegro con brio ở hình thức sonata tràn đầy năng lượng và hứng khởi. Đoạn coda dài hơn cả phần trình bày và phần phát triển với những hợp âm được chơi với cường độ cực mạnh (fff). Trong suốt bản giao hưởng, có một bè âm thanh đặc biệt do cách sử dụng kèn horn của Beethoven. Tác phẩm được viết ở giọng La trưởng, điều đã tạo ra vẻ rực rỡ không thấy có trong các bản giao hưởng trước đó của ông.

Ý kiến phê bình

Tuy nhiên không phải là không xuất hiện những ý kiến trái chiều về kiệt tác giao hưởng này. Friedrich Wieck, người có mặt tại các buổi luyện tập cho lần công diễn đầu tiên, đã thuật lại rằng các nhạc công và những người không chuyên đều nhất trí rằng Beethoven hẳn đã soạn bản giao hưởng trong trạng thái say xỉn. Carl Maria von Weber nhận định rằng bè trầm hòa âm ở đoạn coda trong chương đầu chứng tỏ là Beethoven “đã đến độ vào nhà thương điên”. Đến thế kỉ 20, nhạc trưởng Thomas Beecham tỏ ý khắt khe với chương III, ông nói: “Bạn biết làm gì với nó đây? Cứ như là cả đám bò Tây Tạng nhẩy xồ ra.” Còn chính tác giả, ngay trong buổi đầu công diễn tác phẩm Beethoven đã khẳng định: “Trong những tác phẩm hay nhất của tôi, tôi có thể tự hào chỉ ra bản giao hưởng giọng La trưởng.”

Nghe tác phẩm:

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

XEM NHIỀU